Các lô vải thiều xuất khẩu sang Australia được lựa chọn, làm sạch, cắt cuống, nhúng vào nước lạnh 5 độ C, rồi được vận chuyển trong xe lạnh cũng ở nhiệt độ là 5 độ C để vào Thành phố Hồ Chí Minh chiếu xạ, đóng thùng đưa lên máy bay sang Australia.
Mặc dù vậy, trong hơn 40 tấn vải thiều đưa sang Australia trong năm đầu tiên thử nghiệm của 9 nhà nhập khẩu ở Australia, không phải tất cả đều giữ được chất lượng, màu sắc tươi ngon cùng giá thành rẻ. Nguyên nhân là có rất ít lô hàng vượt qua được sự kiểm duyệt nghiêm ngặt của cơ quan kiểm dịch Australia ngay sau khi được đưa ra khỏi máy bay. Đa số buộc phải để lại vài ngày, thậm chí hàng tuần để đơn vị kiểm dịch xử lý lại làm sao đáp ứng đủ tiêu chuẩn an toàn vệ sinh của họ thì mới được trả cho doanh nghiệp để đưa ra thị trường. Vì thời gian qua khâu kiểm dịch kéo dài, doanh nghiệp phải bỏ thêm chi phí thuê kho lạnh lưu giữ, vải thiều lại là loại trái mau hỏng, nên chất lượng và giá thành bị ảnh hưởng rất lớn.
Theo quy định cho phép nhập khẩu hàng nông sản của Australia thì trái vải phải không có lá, không cành, không có đất, rác hay bất cứ côn trùng nào và dư lượng thuốc trừ sâu không được quá nồng độ cho phép. Do đó, lô hàng đầu tiên của doanh nghiệp TCT Export ở Sydney do cuống quả vải của một số thùng chưa cắt sát quả theo đúng yêu cầu của Australia, trong các thùng vải vẫn còn lá, cành chưa nhặt hết, một vài quả có sâu ở cuống (loại sâu này sau đó được xác định vô hại đối với cây trồng ở đây), nên phải lưu lại ở trung tâm kiểm dịch 1 tuần liền sau đó, dẫn đến việc tăng thêm chi phí lưu trú, kho bãi… Khi ra đến chợ tiêu thụ, để có lãi thì lô vải thiều này cần phải bán với giá 22AUD/1kg (tương đương gần 350.000 đồng/1kg). Giá thành cao, ngang với quả cherry lúc đắt nhất, cộng với màu sắc kém tươi, khiến lượng tiêu thụ không được nhanh như kỳ vọng.
Các lô hàng sau, do lỗi kỹ thuật nên khi xe lạnh vận chuyển vải vào Thành phố Hồ Chí Minh để nhiệt độ là 16 độ C cùng việc lưu kho mấy ngày tại Australia nên vỏ của toàn bộ các lô vải xuống sắc thành màu đỏ xám, doanh nghiệp đành phải bán với giá 15 AUD/1kg để giải phóng hàng.
Ngoài ra, năm 2015 mới chỉ có một vài cơ sở đóng gói và chiếu xạ ở Việt Nam nên xảy ra việc ít nhiều độc quyền về giá, khiến trái vải khi xuất sang Australia có chi phí cao lên thêm 11 - 12 AUD/kg, rất khó cạnh tranh với các loại hoa quả khác. Có thể nói, doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã gặp không ít khó khăn trong việc làm quen với tất cả các tiêu chuẩn, quy định kiểm dịch nghiêm ngặt của Australia, từ vườn trồng, cho đến cơ sở đóng gói cũng như cơ sở chiếu xạ.
Năm 2016, trong khi nguồn cung vải thiều xuất khẩu đạt chất lượng đã sẵn sàng, Australia cũng đã có hợp đồng tiếp nhận vải thiều với số lượng lớn và trung tâm chiếu xạ tại Hà Nội được đưa vào sử dụng, nhưng doanh nghiệp vẫn nảy sinh vướng mắc do từ chối yêu cầu soi chiếu, giám sát an ninh quả vải tại trung tâm ngay sau khi chiếu xạ. Nếu chiếu xạ xong mà không được soi chiếu an ninh luôn, chất lượng quả xuất khẩu sẽ không đảm bảo theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt của phía đối tác nhập khẩu.
Vải thiều tươi xuất khẩu của Việt Nam phải được chiếu xạ trong container chuyên dụng và dán tem niêm phong. Tem niêm phong phải được giữ nguyên vẹn trước khi có sự kiểm tra của cơ quan chức năng Australia, khi mất tem niêm phong, container vải thiều sẽ bị phía Australia trả về. Nếu sau khi chiếu xạ vải thiều lại phải qua khâu kiểm tra an ninh thì việc chiếu xạ sẽ không còn tác dụng. Thậm chí, dù phía hàng không dù cho phép việc soi chiếu, giám sát an ninh tại cơ sở nằm ngoài cảng hàng không thì vẫn còn khó khăn vướng mắc khi yêu cầu các thủ tục như doanh nghiệp phải có đề nghị và ngồi lại cùng cơ quan chức năng để xây dựng quy chế phối hợp, mất nhiều thời gian trong khi đã bắt đầu vào vụ thu hoạch vải.
Không những thế, cước vận chuyển qua đường hàng không của Vietnam Airlines đối với mặt hàng trái cây tươi cao hơn từ 30 - 40 cents/kg so với hàng hóa thông thường. Như vậy, riêng chi phí vận chuyển, chiếu xạ đã chiếm 2/3 giá thành quả vải khiến trái vải Việt Nam xuất khẩu khó cạnh tranh với sản phẩm của Thái Lan, Trung Quốc tại thị trường Australia.
Kịp thời tháo gỡ một số khó khăn thực tại của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu vải thiều của Việt Nam, ngày 14/6/2016, Tổng công ty Hàng không Việt Nam (TCT KHVN) có công văn số 1144/TCTHK-TTHH thông báo về việc triển khai hỗ trợ xuất khẩu vải thiều mùa vụ 2016. Trong công văn nêu trên, Tổng công ty Hàng không Việt Nam có thông báo sẽ giảm giá cước vận chuyển từ 10-55% (tùy điểm đến) so với giá hàng mau hỏng tại bảng giá công bố hiện tại, áp dụng cho nguồn hàng trái vải xuất đi thị trường quốc tế mà Vietnam Airlines đang khai thác đường bay thẳng (giá cước trên chưa bao gồm phụ thu nhiên liệu và phụ thu bảo hiểm mà hãng đang áp dụng).
Ngày 20/6/2016, Cục Bảo vệ thực vật thông
báo chính thức về việc Bộ Nông nghiệp và Thủy lợi Australia công nhận Trung tâm
chiếu xạ Hà Nội được phép xử lý chiếu xạ quả vải tươi xuất khẩu sang Úc, góp phần giảm giá thành của vải thiều xuất khẩu và tiết kiệm thời gian vận chuyển. Theo quy định của Australia, để được xuất khẩu trái vải tươi của Việt Nam vào
thị trường Australia phải đảm bảo 5 yêu cầu gồm: Vùng trồng,
bao bì, nhãn mác, xử lý chiếu xạ và kiểm dịch.
Đối với vùng trồng, cơ sở trồng vải phải áp dụng biện pháp canh tác, quản lý sinh vật gây hại và thu hoạch đảm bảo giảm thiểu sinh vật gây hại trên quả vải, áp dụng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) và được Cục Bảo vệ thực vật kiểm tra, cấp mã số. Đồng thời, phải lập và lưu lại hồ sơ, nhật ký sản xuất. Vải xuất khẩu không bị nhiễm sâu bệnh, không dính đất, không được để lẫn với các sản phẩm từ các vùng trồng chưa được cấp mã số và được đựng trong các thùng (hộp) và ghi rõ thông tin cơ sở trồng phục vụ cho việc truy nguyên nguồn gốc.
Vải phải được vận chuyển đến cơ sở đóng gói, được cấp mã số bằng phương tiện đảm bảo vệ sinh. Đối với cơ sở đóng gói vải, phải đăng ký và được Cục Bảo vệ thực vật kiểm tra, cấp mã số. Cơ sở đóng gói phải được Cục Bảo vệ thực vật kiểm tra đánh giá và công nhận đáp ứng điều kiện nhập khẩu của Australia.
Về bao bì và ghi nhãn, bao bì đóng gói vải xuất khẩu sang Australia phải đảm bảo hạn chế việc lây nhiễm sinh vật gây hại, kẽ hở hoặc lỗ thoáng phải nhỏ hơn 1,6mm. Thùng các-tông đựng vải phải ghi rõ mã số cơ sở trồng vải, cơ sở đóng gói và cơ sở xử lý và ghi rõ bằng tiếng Anh “Treated with ionizing irradiation” hoặc “Treated with ionizing electrons” hoặc “Irradiated (food)”, và có thể in logo theo quy định đối với thực phẩm chiếu xạ trên bao bì các-tông.
Về xử lý chiếu xạ, vải xuất khẩu đi Australia phải được xử lý tại các cơ sở chiếu xạ đã được Cục Bảo vệ thực vật công nhận (gồm Công ty chiếu xạ Sơn Sơn và Công ty cổ phần chiếu xạ An Phú, Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội) theo liều lượng quy định dưới sự giám sát của cán bộ kiểm dịch thực vật của Việt Nam.
Về kiểm dịch lô vải xuất khẩu, phải được kiểm dịch thực vật đáp ứng yêu cầu nhập khẩu của Australia và có Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật (Giấy chứng nhận) do cơ quan kiểm dịch thực vật của Việt Nam cấp, trên đó ghi rõ: “Lô quả này được sản xuất tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện nhập khẩu vải tươi vào Australia và tuân thủ quy định tại Chương trình xuất khẩu quả vải đã được chiếu xạ từ Việt Nam sang Australia”. Trong mục biện pháp xử lý trên Giấy chứng nhận ghi rõ “Liều chiếu xạ thấp nhất 400 Gy”.
TRUNG TÂM THÔNG TIN CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI